Bối cảnh Trận_Caen_(1944)

Chiến lược của quân Anh

Người Anh tham chiến từ năm 1939 chống lại quân đội Đức Quốc Xã để duy trì cân bằng quyền lực ở châu Âu lục địa. Tuy vậy, với sự nổi lên từ các siêu cường là Mỹ và Liên Xô, việc người Anh thuộc phe thắng trận đơn giản là không đảm bảo các mục đích của người Anh trong cuộc chiến. Vai trò của người Anh sau Thế chiến thứ hai chắc chắn sẽ không nhiều bằng Mỹ và Liên Xô, nhưng với việc duy trì được Tập đoàn quân số 21 (Anh Quốc), Anh hy vọng có thế sử dụng sư đòan cho để duy trì vị thế của Anh thời hậu chiến sau này. Tập đoàn quân trên dự kiến cũng sẽ tham chiến trong chiến dịch Downfall mà Đồng Minh dự định triển khai chống lại Đế quốc Nhật Bản. Nền kinh tế Anh chuyển hoàn toàn sang nền kinh tế phục vụ cho nhu cầu chiến tranh vào năm 1942, khi quân đội Anh bắt đầu thiếu hụt quân nhu trầm trọng. Với việc tránh được thương vong quân sự thì người Anh, môt mặt có thể bảo toàn được các sĩ quan có kinh nghiệm thực chiến, mặt khác duy trì được cho tinh thần cho binh sĩ luôn luôn ổn định và duy trì được quân số cho đến khi Đức bị đánh bại hoàn toàn. Với việc quân Đồng Minh mở lại mặt trận Tây Âu năm 1944, Tập đoàn quân số 21 giờ đây đối mặt với việc thiếu hụt viện binh trầm trọng, tạo một sức ép đáng kể lên nhuệ khí chiến đấu của các binh sĩ trong quân đoàn. Theo nhiều sĩ quan Canada và Anh đã từng chiến đấu trong thế chiến thứ nhất[lower-alpha 1], việc tiến hành chiến dịch dưa trên ưu thế về công nghệ và hỏa lực sẽ khiến binh sĩ tránh được một trận chiến đẫm máu và kéo dài. Tuy vậy, liên quân Anh-Canada vẫn phải tiến quân một cách thận trọng khi họ phải đối đầu với quân Đức có trong tay các sư đoàn kỳ cựu được chỉ huy bởi các sĩ quan có nhiều kinh nghiệm.[1]

Ultra

Tin tình báo thu thập được từ các bức điện tín của người Đức được mã hóa bởi máy Enigma được gán mật danh Ultra bởi Trường Mật mã và Thuật toán Trung ương Anh (GC&SC) tại Công viên Bletchley; cho đến năm 1943, các tin tình báo do chiến dịch Ultra cung cấp thường xuyên được xem xét và sau đó chuyển tới cho các sĩ quan cấp cao của quân Đồng Minh, trong khi đó người Đức vẫn không hề hay biết tới sự tồn tại của chiến dịch.[2] Việc biết được những thông tin về các kế hoạch phản công của quân Đức cũng như thành công trong việc đánh lừa của quân đội Đồng Minh đối với quân Đức là những thước đo đánh giá chính xác cho Ultra cùng với các nguồn tin tình báo khác. [3] Tháng 3 năm 1944, các thông tin giải mã được cho thấy người Đức đang chờ đợi một cuộc đổ bộ của quân Đồng Minh ở bất kỳ đâu trong toàn bộ phần bờ biển từ Na Uy cho đến biên giới với Tây Ban Nha. Ngày 5 tháng 3, Hải quân Đức Quốc xã cho rằng sẽ có tới 6 quân đoàn Đồng Minh được ném vào Na Uy, trong khi Fremde Heere West (FHW, Quân Đoàn Lê Dương phía Tây (Đức Quốc Xã)), 1 trong những cơ quan thuộc hệ thống tình báo của Bộ Tổng Tham mưu Đức dự đoán vùng nguy hiểm, nơi mà quân Đồng Minh đổ bộ lên, nằm trong vùng bờ biển từ Pas de Calais cho đến thung lũng Loire. Rundstedt dự đoán rằng sẽ có khoảng 20 sư đoàn đổ bộ vào khoảng đầu tháng 5, với vị trí đổ bộ nằm đâu đó giữa Boulogne và Normandy. Tuy vậy ông xác định được quân lực Đồng Minh có khả năng tập trung giữa hai cảng nước Anh là SouthamptonPortsmouth. Một cuộc tập trận chống đổ bộ được quân Đức thực hiện ở vùng bờ biển từ Bruges cho đến sông Loire, một cuộc tập trận khác thì diễn ra trên khoảng bờ biển dài 50 km từ Ouistreham cho tới Isigny. Vào mùng 1 tháng 6, FHW dự đoán rằng sẽ có một cuộc đổ bộ vào ngày 12 tháng 6 ở đâu đó ở trên Địa Trung Hải hoặc là ở vùng bờ biển khu vực Balkan.[4][lower-alpha 2]

Kế hoạch Ovellord

Ngày 6 tháng 10 năm 1943, Tướng Dwight D. Eisenhower được bổ nhiệm làm Tư lệnh Đồng minh Tối cao Lực lượng Viễn chinh Đồng minh. Quá trình tiến hành cuộc đổ bộ sẽ được thực hiện bởi Quân đoàn 21 (của Tướng Bernard Montgomery), phối hợp cùng với các lực lượng Đồng Minh khác trên đất Pháp cho đến khi Eisenhower thiết lập được trụ sở Bộ chỉ huy các Lực lượng trên bộ của mình tại Pháp. Trung tướng Frederick Morgan, Tổng Tham mưu Trưởng, đồng thời cũng là Tư lệnh Tối cao Quân Đồng Minh (COSSAC) cùng với các thành viên trong ban Tham mưu khác đã chuẩn bị kế hoạch này từ tháng 5 năm 1943.[lower-alpha 3]Montgomery nghiên cứu các kế hoạch của COSSAC và sau đó, tại cuộc họp ngày 24 tháng 1 năm 1944, ủng hộ một cuộc đổ bộ trên một mặt trận dài hơn từ Quinéville (ở phía Tây) cho đến Cabourg les Bains (ở phía Đông) ở bờ Đông sông Orne.[7][8] 3 sư đoàn của Quân đoàn Anh số 2 (của Trung tướng Miles Dempsey) sẽ đổ bộ lên các vị trí mang các mật danh (theo thứ tự lần lượt từ Đông sang Tây) là Gold, Juno and Sword.[7][8][9]

Ba sư đoàn của Tập đoàn quân Hoa Kỳ số 1 (của tướng Omar Bradley) sẽ đổ bộ vào các bãi OhamaUtah ở phía Tây, đồng thời với cuộc tiến công của 3 sư đoàn dù vào hai sườn của khu vực đổ bộ.[7][8][9] Lực lượng Mỹ ở phía Tây sẽ chiếm Cherbourg, ở giai đoạn hai sau đó thì họ tập trung tiến công dọc theo bờ Tây sông Loire và các cảng vùng Bretagne.[lower-alpha 4] Liên quân Anh-Canada đổ bộ ở vùng sườn phía Đông sẽ đối đầu với quân Đức và tiếp viện của họ tiến đến vùng Đông và Đông Nam của khu vực đổ bộ vừa mới tạm chiếm[11]. Theo kế hoạch chiến thuật thì quân đổ bộ phải nhanh chóng chiếm được các tuyến đường bộ trọng yếu ở Normandy bằng các đòn tiến công nhanh của lực lượng thiết giáp qua Caen, Bayeux và Carentan nhằm chiếm lấy vùng cao điểm ở Đông Nam thành phố Caen, nơi mà từ đó có thể dễ dàng kiểm soát các vùng đất ở khu vực, bao gồm cả tuyến đường chính dẫn đến thành phố Caen cũng như là nơi giao nhau giữa hai con sông Odon và Orne.[8]

Tập đoàn quân số 2

Từ ngày 7 đến ngày 8 tháng 4, Montgomery cho tiến hành triển khai chiến dịch Thunderclap, một cuộc tập trận cho chiến dịch với mục đích mô phỏng các cuộc tấn công đồng thời của tập đoàn quân theo hai hướng: phía Bắc vùng cửa sông Carentan và ở giữa vùng cửa sông Carentan với vùng Orne, với mục đích chính là chiếm giữ khu vực đầu cầu bao gồm một số sân bay cùng với hải cảng Cherbourg. Vào ngày D+4, Montgomery dự đoán quân chi viện Đức sẽ tiến đến mặt trận Normandy. Lực lượng chi viện gồm 16 sư đoàn từ tập đoàn quân Tây (Westheer) của Đức Quốc Xã, trong đó có 10 sư đoàn panzer hoặc Panzergrenadier, nhằm hướng các bãi biển đã được quân Đồng Minh đổ bộ trước đó. Montgomery dự đoán cuộc phản công sẽ thất baị sau 4 ngày, lúc này người Đức sẽ phải chuyển sang thế thủ nhằm kiềm giữ các lực lượng Đồng Minh trong các khu vực đổ bộ. Tập đoàn quân số 2 gồm các sư đoàn của Anh và Canada sẽ đổ bộ vào bờ Tây sông Orne, được bảo vệ bởi một cuộc đổ bộ đường không vào bờ Đông sông Orne và chiếm giữ các đầu cầu tại Benouville và Ranville. Liên quân Anh-Canada sau đó sẽ tiến xuống theo hương Nam và Đông Nam, chiếm thêm đất và bảo vệ sườn phía Đông của Tập đoàn quân số 1 đang tấn công Cherbourg. Montgomery sử dụng các đường hoạch định tiến công, thứ được thừa hưởng từ kế hoạch của COSSAC, nhằm xác định chiến quả của giai đoạn 1 của cuộc đổ bộ vào ngày D+20, với mặt trận trải dài từ vùng Eo biển Anh cho tới phía Đông Caen, mở rộng tới vùng Tây Nam của thành phố, phía Nam các thị trấn Vire và Avranches cho tới vùng bờ biển đã được giải phóng.[12][13]

Ngày 15 tháng 5, Montgomery gửi bản kế hoạch cuối cùng của chiến dịch Overlord cho các chỉ huy Đồng Minh cùng với một số ghi chép khác của ông về chiến dịch, đưa ra mục tiêu của chiến dịch, thực hiện tiến công đồng thời

(a) Tiến công ngay lập tức vào phía Bắc vùng cửa sông Carentan.(b) Giữa vùng cửa sông Carentan và sông Orne với mục tiêu giữ vũng khu vực để làm bàn đạp cho các chiến dịch tiếp theo. Khu vực quân sự này bao gồm các vị trí sân bay và cảng Cherbourg....
— Montgomery, 15 tháng 5 năm 1944[14]

Montgomery dự đoán rằng quân Đức sẽ cố gắng đánh bật lực lượng đổ bộ ngay tại bãi biển và giữ Caen, Bayeux và Carentan, với Bayeux là trung tâm cho cuộc phản công của người Đức nếu xảy ra. Khi cuộc phản công của quân Đức chững lại thì "cái sợi dây thòng lọng" của quân đội Đồng Minh sẽ có sự thay đổi đáng kể, với việc chuyển sang chiếm giữ các vùng đất xung quanh các trục đường chính xung quanh sông Dives, các cao điểm từ khu vực sông Orne gần Falaise cho tới vùng sông Vire gần Saint-Lô và dọc bờ Tây sông Vire.[15]

Chiến lược của quân Đức

Hai Thống soái của Bộ Tổng Tham mưu Tối cao Tập đoàn quân Tây (Oberbefehlshaber West) là Erwin RommelGerd von Rundstedt không đồng ý trong cách thức đánh bại cuộc đổ bộ, dẫn đến tranh cãi lớn trong việc triển khai các sư đoàn thiết giáp dưới quyền hai ông, trong khi lực lượng thiết giáp chính lại nằm sâu trong đất liền Pháp. Rundstedt dự định sẽ giữ các sư đoàn sâu trong đất liền, chờ đợi lực lượng chính của quân Đồng Minh xuất hiện để đánh bật lực lượng này ra khỏi các bãi đổ bộ, tiến tới việc buộc quân Đồng Minh rút khỏi lục địa. Tướng Leo Geyr von Schweppenburg, chỉ huy quân đoàn thiết giáp Tây (Panzergruppe West), một quân đoàn được thành lập vào tháng 11 năm 1943 nhằm đào tạo cho các sư đoàn thiết giáp ở phía Tây nước Đức, đồng ý với ý kiến này của Rundstedt, dựa trên kinh nghiệm của ông về hải pháo của hải quân Đồng Minh có được từ trận phản công gần bãi đổ bộ Anzio trước đó (Tháng 1 – tháng 2 năm 1944).[16] Rommel, dựa trên kinh nghiệm thực chiến trong quân đoàn của ông khi Luftwaffe mất đi ưu thế của mình trong trận chiến tại Bắc Phi, cho rằng các vị tướng đã từng tham chiến trên mặt trận phía Đông đánh giá thấp sức mạnh của không quân Đồng Minh. Cuộc tấn công vào quân đổ bộ sẽ khiến họ trì hoãn và cuối cùng là dẫn đến thất bại trong việc tiến đánh lực lượng đổ bộ này. Rommel cho rằng chỉ khi phản công nhanh ngay trong giai đoạn đang đổ bộ thì mới có thể có cơ hội đánh bại được lực lượng Đồng Minh và do đó các lực lượng thiết giáp cần phải ở gần bờ biển hơn cho chiến thuật này.[17] Rundstedt và Geyr nhận thấy các sư đoàn của mình sẽ phải dàn mỏng hơn để phục vụ cho việc tác chiến nếu thực hiện theo kế hoạch phòng thủ của Rommel, và do đó súng và không quân Đồng Minh sẽ hủy diệt lực lượng thiết giáp này.[17]

Tháng 4 năm 1944, Hitler áp đặt một thỏa hiệp, theo đó các sư đoàn thiết giáp số 21, 2 và 116 sẽ sát nhập nhập vào Cụm Tập đoàn quân B, còn sư đoàn SS số 2 cùng với các sư đoàn thiết giáp số 9 và 11 vào Cụm tập đoàn quân G (của Thượng tướng Johannes Blaskowitz). Trong khí đó các sư đoàn SS số 1 và số 2, sư đoàn SS Panzergrenadier số 17 và sư đoàn Panzer Lehr sẽ trực thuộc Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực Đức (Oberkommando der Wehrmacht hay OKW).[17][16] Sự thỏa hiệp này có nghĩa là lực lượng dự bị trung tâm quá nhỏ để có thể Rundstedt triển khai hành quân, đồng thời lại có quá ít sư đoàn để Rommel có thể cho các sư đoàn thiết giáp của mình ở khu vực bờ biển ngay trong quá trình đổ bộ. Các hai vị tướng này đều mất quyền chỉ huy các sư đoàn nằm dưới sự chỉ huy của OKW, các sư đoàn mà Rommel cho là cần thiết cho chiến lược phòng thủ của mình, và do đó ông buộc phải điều các sư đoàn thiết giáp số 21, 2 và 116 từ Scheldt về Loire.[18] Vào mùa xuân năm 1944, khi Hitler liệt Normandy vào danh sách mục tiêu thứ yếu của quân Đồng Minh, Bộ Tổng Tham mưu Tối cao Tập đoàn quân Tây có trong tay 60 sư đoàn bộ binh (180,000 quân) và 15 sư đoàn thiết giáp (1,552 xe tăng). Cụm tập đoàn quân B có 35 sư đoàn để bảo vệ đường bờ biển dài 3.000 mi (4.800 km).[19] Nửa số bộ binh bảo vệ chỉ là các đội phòng vệ bờ biển nhỏ lẻ hoặc các binh sĩ đang được huấn luyện, và chỉ một phần tư số bộ binh tham gia phòng thủ bờ biển được trang bị vũ khí đầy đủ. (Sư đoàn Thiết giáp SS số 2 của SS-Obergruppenführer Paul Hausser cùng với các sư đoàn thiết giáp số 9 Hohenstaufensư đoàn thiết giáp số 10 Frundsberg được gửi tới Ba Lan vào tháng 4 nhưng được gọi trở lại Pháp vào ngày 12 tháng 6).[20]

Bức tường Đại Tây Dương

Việc chỉ huy các lực lượng phòng thủ ở mặt trận phía Tây được Hitler thực hiện thông qua OKW (Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực Đức). Việc xây dựng các công sự phòng thủ nằm tại các cảng biển đã được hoàn tất trong năm 1940 và cuộc đổ bộ của quân Đồng Minh tại Dieppe vào tháng 8 năm 1942 đã sớm chứng minh được hiệu quả của các công trình phòng thủ này với chỉ 600 quân Đức thương vong, còn quân Đồng Minh phải rút lui chỉ sau vài giờ chiến đấu.[21]Vào tháng 3 năm 1940, Hitler ban hành chỉ thị số 40, trong đó nêu rõ rằng nếu có một cuộc đổ bộ do quân địch tiến hành thì phải khiến địch thất bại ngay khi đang còn ở trên biển hoặc chi ít là ở trên bờ biển; vào tháng 11 1 năm sau đó, Hitler ra thêm chỉ thị số 50 yêu cầu tăng cường phòng thủ khu vực phía Tây lục địa châu Âu.[22]Rommel thì được chuyển từ mặt trận Ý sang để kiểm tra các công sự bờ biển. Sau đó, đến lượt Cụm Tập đoàn quân B được chuyển sang cũng từ mặt trận Ý để chỉ huy các Tập đoàn quân số 15 từ Antwerp, Bỉ chuyển sang Orne, Pháp và Tập đoàn quân số 7 từ Orne sang sông Loire, nhưng tập đoàn quân này chỉ được đóng trên một vùng bờ biển có chiều sau khoảng 9,7 km. Xa hơn về phía Nam, Cụm Tập đoàn quân G gồm các tập đoàn quân số 1số 19 phòng thủ phần bờ biển Pháp bên phía Đại Tây Dương và vùng Địa Trung Hải.[20]Các lực lượng sâu hơn trong đất liền thì vẫn do Rundstedt chỉ huy nhưng cuối cùng thì các sư đoàn thiết giáp và bộ binh cơ giới hóa của Đức Quốc Xã lại bị chia ra cho Bộ Chỉ huy Tối cao Quân lực Đức đồng chỉ huy cùng với hai Cụm Tập Đoàn quân, còn Rundstedt chỉ còn chỉ huy có 3 sư đoàn trong Cụm Tập đoàn quân G.[22] Các công nhân dân sự từ Tổ chức Todt và binh lính xây dựng các Perlenschnur (Tạm dịch: Chuỗi hạt ngọc trai) - là các công sự bằng thép và bê tông có các mạng lưới hỏa lực nằm chồng lên nhau dựa trên các mạng lưới chống cự (Widerstandsnester) gồm các hỏa điểm (Stüzpunkter) và các nhóm hỏa điểm mạnh (Stützpunktgruppe). Các chướng ngại vật và hào chống tăng được xây dựng, số lượng các mìn (cả thật lẫn giả) được đặt tăng lên rất nhiều, cụ thể là cao gấp 3 lần so với năm 1941.[22][23][lower-alpha 5]Cho đến hết năm 1943, khoảng 8500 công sự được hoàn thành và từ đầu năm 1944 cho đến trước ngày quân Đồng Minh đổ bộ thì có thêm tới 12,247 công sự tiếp tục được hoàn tất chỉ riêng ở Bắc Pháp. Các trận địa pháo được di chuyển và nhiều vị trí giả được dựng lên để đánh lừa không quân Đồng Minh.[23]

Bờ biển Normandy

Vùng Normandy (Calvados) có bờ biển rộng và một số bến cảng nhỏ, lại gần với cảng lớn Cherbourg. Có một khu vực với chiều dài 18 mi (29 km) giữa vùng cửa sông Orne ở phía Bắc Caen và Arromanches thì thích hợp cho việc đổ bộ ngoại trừ các vùng đá ngầm ngăn các tàu chiến lớn đến gần bờ hơn. [24]Vào năm 1944, khu vực từ sông Seine cho tới Cherbough với chiều dài 150 mi (240 km) được trấn giữ bởi sáu sư đoàn Đức, bốn trong số này được thành lập từ các đoàn phòng vệ bờ biển, cùng với sự hỗ trợ của sư đoàn Thiết giáp số 21 (của Trung tướng Edgar Feuchtinger).[19] Tại bãi Sword, có tới 525 công sự kiểu "con nhím" (hedgehog), 267 cọc chống, 57 đường dốc gỗ, 46 chướng ngại vật dạng cointet barrier được dựng lên để ngăn cản việc đổ bộ của quân Đồng Minh kể từ tháng 6, với ước tính cứ 3 yd (2,7 m) thì sẽ có một chướng ngại vật được xây dựng, tiêu tốn khoảng 245 tấn Anh (249 t) thép, 124 tấn Anh (126 t) gỗ cùng với một lượng lớn bê tông. Phần lớn các chướng ngại vật này đều gắn mìn hay đạn pháo phòng không, với 1 lb (0,45 kg) thuốc nổ trên 1 yd (0,91 m) diện tích bãi biển.[25]Các vùng đất xung quanh bờ biển được công sự hóa, cùng với một Stüzpunktgruppen xây dựng ở Franceville và Franceville tại vùng cửa sông Orne, một trận địa pháo phòng không được làm bằng thép và bê tông đặt tại Merville với 4 khẩu 75 mm, một khẩu đội pháo 155 mm được xây dựng ở phía Nam Ouistreham. Trên 8 mi (13 km) bờ biển kép dài từ Riva Bella cho đến vùng căn cứ (Stützpunkt) tại Corseulles, chín ổ kháng cự (WN, Widerstandsneste) được xây dựng dọc theo các tường chắn sóng và các đụn cát ven biển. Phần lớn các ổ kháng cự này đền có các ụ bê tông nhằm tăng khả năng chống chịu trước các cuộc pháo kích và ném bom đường không. Các ổ này cũng có các vị trí súng máy, các vị trí công sự lựu pháo cũng như các hầm bê tông lớn để bảo vệ quân đồn trú.[24]

Không có các dãy công sự phòng thủ thứ cấp nhưng pháo dã chiến và pháo chống tăng được đào ụ cách vị trí bờ biển từ 2–4 mi (3,2–6,4 km), binh lính thì đóng trong những chỗ trú quân trong các chỗ trú quân có trong các khu dân cư nhằm ngăn chặn việc chọc thủng phóng tuyến cho đến khi lực lượng dự trữ đến.[24]Sư đoàn Bộ binh số 716 (của Trung tướng Wilhelm Richter) cùng với hai sư đoàn khác (ước tính 9,343 quân) được tăng viện đến vùng dưới sự hỗ trợ của sư đoàn pháo binh số 1716 có trong tay 5 khẩu đội pháo của người Nga và Pháp cùng với 1 đại đội pháo chống tăng. Cho đến đầu năm 1944, các sư đoàn của quân Đức bố trí trên một mặt trận từ Le Hamel cho tới Merville-Franceville-Plage với 4 khu vực đóng quân chính, với tổng số lượng mìn bố trí trên mặt trận này là 13,400 (khoảng một nửa trong số này bị vô hiệu hóa do ăn mòn ngòi nổ). Cho đến vài tuần trước khi đổ bộ diễn ra, sư đoàn phòng thủ có khoảng 7,771 người trong các trung đoàn số 726 và 736 (mỗi trung đoàn này có 3 tiểu đoàn), với 96 súng máy các loại, 11 khẩu cối 50 ly, 13 khẩu cối 80 ly với các sư đoàn Grenadier Ostbattaillon được huấn luyện kém với phần lớn binh lính là người Ba Lan, 1 đại đội chống tăng hỗ trợ cùng với một số khẩu đội chống tăng khác. [26]Sư đoàn Thiết giáp số 21 được điều chuyển đến Caen vào tháng 5, với 140 xe tăng và 50 pháo tự hành xung kích án ngữ ở khu vực phía Nam thành phố, hai tiểu đoàn panzergrenadier được bố trí ở bờ đối diện của sông Orne (tức phía Bắc Caen), cùng với lực lượng pháo binh bờ biển hỗ trợ phòng thủ chiều sâu trên môt mặt trận dài 8 mi (13 km) cho sư đoàn Bộ binh số 716.[27][28]

Liên quan